Thứ Hai, 6 tháng 10, 2014

Tìm hiểu về tiếng Việt mẹ đẻ

Không chỉ riêng những người làm trong ngành dịch vụ dịch thuật mới phải giỏi cả tiếng Việt mẹ đẻ và tiếng nước ngoài. Bạn sinh ra đã là một người Việt Nam, vậy đã có khi nào bạn tự hỏi mình rằng: mình đã thực sự am hiểu tiếng Việt chưa?

Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của Việt Nam, 85% người Kinh sử dụng tiếng Việt là   tiếng mẹ đẻ và là ngôn ngữ thứ của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam, đồng thời là của 4 triệu người định cư ở nước ngoài. Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế đặt mã 2 chữ cái cho tiếng Việt là VI (tiêu chuẩn ISO 639-1) và VIE (tiêu chuẩn ISO 639-2).

Lịch sử phát triển tiếng Việt


Trong suốt 1000 năm Bắc thuộc và gần 800 năm các triều đại phong kiến Việt Nam, chữ Hán (chữ Nho) đã trở thành chữ viết Quốc gia. Chữ Hán là một dạng chữ tượng hình, ra đời từ rất sớm khoảng 1800 TCN do An Dương đời nhà Thương tạo dựng nên.

Dọ chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền văn hóa Trung Hoa. Trong thời kỳ này, Trung Quốc là một quốc gia phát triển mạnh nhất châu Á, có tầm ảnh hưởng rất lớn đến các quốc gia xung quanh, vì vậy mà các nước đều coi trọng và phổ biến chữ Hán. Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam trong thời gian này cũng chú trọng phát triển một hệ ngôn ngữ riêng cho dân tộc – đó chính là chữ Nôm.

Chữ viết của Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ nền văn hóa Trung Quốc

Về cơ bản, chữ Nôm dựa trên quy tắc của chữ Hán. Dựa vào chữ Hán, chữ Nôm được cấu tạo bằng 5 cách khác nhau, dựa trên 3 yếu tố là hình – âm – nghĩa: mượn cả âm và nghĩa của chữ Hán, mượn nghĩa của chữ Hán chữ không mượn âm, mượn âm chữ Hán chứ không mượn nghĩa. Ghép 2 chữ Hán với nhau, thêm nét và thêm chữ Hán, thêm nét ở phía trên, bên cạnh để chỉ một chữ có âm khác biệt, bớt nét các chữ Hán, đổi luôn cả âm và nghĩa. Vào năm 1789, vua Quang Trung đã chính thức chọn chữ Nôm là chính thức trong ngôn ngữ hành chính.

Ảnh minh họa trang đầu của cuốn Phép giảng tám ngày in năm 1651. Bên trái là chữ Latin, bên phải là chữ Quốc Ngữ

Từ thế kỷ 15 – 18, các nước phương Tây đẩy mạnh cuộc xâm lược thuộc địa tại các nước châu Á, Phi và Mỹ Latin nhằm biến những quốc gia này thành nơi cung cấp nguyên vật liệu, nhân công rẻ mạt, thị trường tiêu thụ hàng hóa và làm giàu cho “chính quốc”. Hình thức phổ biến nhất là truyền Đạo vào các quốc gia này, tăng cường sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, giao thương và cuối cùng là sử dụng vũ lực để xâm lược.

Tại Việt Nam, các nhà truyền đạo của phương Tây nhận thấy, họ có thể sử dụng chữ Hán và chữ Nôm phục vụ cho công tác truyền đạo, bởi 2 ngôn ngữ này rất khó học, nó chỉ áp dụng cho tầng lớp nhà giàu và quý tộc, trong khi đó đối tượng mà họ nhắm đến là tầng lớp dân cư nghèo khổ, vốn bất mãn với chế độ triều đình mục nát. Năm 1651, hai giáo sĩ người Ý là Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa sau nhiều năm nghiên cứu và công tác tại Việt Nam, đã xuất bản cuốn Từ điển Việt-Bồ-La và ngữ pháp tiếng An Nam tại Roma gọi là chữ Việt ngữ, tại Việt Nam được dùng phổ biến với tên chữ Quốc ngữ, quy tắc là sử dụng chữ cái Latin ghi âm tiếng Việt.

Ảnh trang bìa cuốn Việt - Bồ - Latin xuất bản năm 1651

Trong thời kỳ Pháp thuộc, chữ Quốc ngữ chịu ảnh hưởng từ một số thuật ngữ mới, từ ngữ mới của phương Tây, mà chủ yếu là tiếng Pháp như phanh, lốp, găng,…. Và tiếng Hàn như chính đảng, kinh tế, giai cấp, bán kính,… Năm 1865, tờ báo Gia Định là tờ báo đầu tiên tại Việt Nam phát hành chữ quốc ngữ. Những nhà yêu nước như cụ Lương Văn Can, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh là những người đi tiên phong trong việc thúc đẩy toàn dân học chữ quốc ngữ và điều này đã góp phần cho sự phát triển và phổ biến trong ngày nay. Do đó, văn học chữ Quốc ngữ thời kỳ này phát triển một cách nhanh chóng và mạnh mẽ, được gọi là nền văn học trước Cách mạng Tháng Tám, tiêu biểu đó chính là Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, Hàn Mặc Tử,… Và bắt đầu từ năm 1945, chữ Quốc ngữ là ngôn ngữ chính thức được sử dụng rộng rãi trong các ngành và lĩnh vực trên toàn quốc.

Đặc điểm


Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của Việt Nam

- Ngữ âm: tiếng Việt có một đơn vị đặc biệt được gọi là “tiếng”. Về mặt ngữ âm, mỗi tiếng là một âm tiết. Hệ thống âm vị tiếng Việt phong phú và có tính cân đối, tạo ra tiềm nằng của ngữ âm tiếng Việt trong việc thể hiện các đơn vị có nghĩa. Nhiều từ tượng hình, tượng thanh có giá trị gợi tả đặc sắc. Khi tạo câu, tạo lời thì người Việt rất chú ý đến sự hài hòa về ngữ âm, nhạc điệu của câu văn.

- Từ vựng: mỗi một tiếng là một yếu tố có nghĩa. Tiếng là đơn vị cơ sở của hệ thống các đơn vị có nghĩa của tiếng Việt, người ta tạo ra các đơn vị từ vựng khác để phân biệt định danh, hiện tượng,… chủ yếu là nhờ vào phương thức ghép và phương thức láy.

- Ngữ pháp:  từ của tiếng Việt không biến đổi hình thái. Đặc điểm này sẽ chi phối trực tiếp đến các đặc điểm ngữ pháp. Khi kết hợp từ thành các kết cấu như ngữ, câu, tiếng Việt rất coi trọng phương thức trật tự từ và hư từ.


Tiếng Việt ngày nay đã trở nên phổ biến, đa dạng hơn bởi với xu hướng hội nhập quốc tế. Sự kết hợp một cách hợp lý giữa các từ ngữ Anh – Việt đã tạo nên tính hiện đại cho tiếng Việt. Bên cạnh đó, nhu cầu sử dụng dịch vụ dịch thuật đang tăng cao do có sự hợp tác giữa các quốc gia ngày càng nhiều. Thông qua dịch thuật, chúng ta có thể hiểu sâu hơn về nét đẹp của tiếng Việt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét