Không chỉ riêng những người làm trong ngành dịch vụ dịch
thuật mới phải giỏi cả tiếng Việt mẹ đẻ và tiếng nước ngoài. Bạn sinh ra đã là
một người Việt Nam, vậy đã có khi nào bạn tự hỏi mình rằng: mình đã thực sự am
hiểu tiếng Việt chưa?
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của Việt Nam, 85% người Kinh
sử dụng tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ và là
ngôn ngữ thứ của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam, đồng thời là của 4 triệu người
định cư ở nước ngoài. Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế đặt mã 2 chữ cái cho tiếng
Việt là VI (tiêu chuẩn ISO 639-1) và VIE (tiêu chuẩn ISO 639-2).
Lịch sử phát triển tiếng Việt
Trong suốt 1000 năm Bắc thuộc và gần 800 năm các triều đại
phong kiến Việt Nam, chữ Hán (chữ Nho) đã trở thành chữ viết Quốc gia. Chữ Hán
là một dạng chữ tượng hình, ra đời từ rất sớm khoảng 1800 TCN do An Dương đời
nhà Thương tạo dựng nên.
Dọ chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền văn hóa Trung Hoa. Trong
thời kỳ này, Trung Quốc là một quốc gia phát triển mạnh nhất châu Á, có tầm ảnh
hưởng rất lớn đến các quốc gia xung quanh, vì vậy mà các nước đều coi trọng và
phổ biến chữ Hán. Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam trong thời gian này cũng chú
trọng phát triển một hệ ngôn ngữ riêng cho dân tộc – đó chính là chữ Nôm.

Về cơ bản, chữ Nôm dựa trên quy tắc của chữ Hán. Dựa vào chữ
Hán, chữ Nôm được cấu tạo bằng 5 cách khác nhau, dựa trên 3 yếu tố là hình – âm
– nghĩa: mượn cả âm và nghĩa của chữ Hán, mượn nghĩa của chữ Hán chữ không mượn
âm, mượn âm chữ Hán chứ không mượn nghĩa. Ghép 2 chữ Hán với nhau, thêm nét và
thêm chữ Hán, thêm nét ở phía trên, bên cạnh để chỉ một chữ có âm khác biệt,
bớt nét các chữ Hán, đổi luôn cả âm và nghĩa. Vào năm 1789, vua Quang Trung đã
chính thức chọn chữ Nôm là chính thức trong ngôn ngữ hành chính.
Ảnh minh họa trang đầu của cuốn Phép giảng tám ngày in năm
1651. Bên trái là chữ Latin, bên phải là chữ Quốc Ngữ
Từ thế kỷ 15 – 18, các nước phương Tây đẩy mạnh cuộc xâm
lược thuộc địa tại các nước châu Á, Phi và Mỹ Latin nhằm biến những quốc gia
này thành nơi cung cấp nguyên vật liệu, nhân công rẻ mạt, thị trường tiêu thụ
hàng hóa và làm giàu cho “chính quốc”. Hình thức phổ biến nhất là truyền Đạo
vào các quốc gia này, tăng cường sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, giao
thương và cuối cùng là sử dụng vũ lực để xâm lược.
Tại Việt Nam, các nhà truyền đạo của phương Tây nhận thấy,
họ có thể sử dụng chữ Hán và chữ Nôm phục vụ cho công tác truyền đạo, bởi 2
ngôn ngữ này rất khó học, nó chỉ áp dụng cho tầng lớp nhà giàu và quý tộc,
trong khi đó đối tượng mà họ nhắm đến là tầng lớp dân cư nghèo khổ, vốn bất mãn
với chế độ triều đình mục nát. Năm 1651, hai giáo sĩ người Ý là Gaspar do
Amaral và Antonio Barbosa sau nhiều năm nghiên cứu và công tác tại Việt Nam, đã
xuất bản cuốn Từ điển Việt-Bồ-La và ngữ pháp tiếng An Nam tại Roma gọi là chữ
Việt ngữ, tại Việt Nam được dùng phổ biến với tên chữ Quốc ngữ, quy tắc là sử
dụng chữ cái Latin ghi âm tiếng Việt.
Ảnh trang bìa cuốn Việt - Bồ - Latin xuất bản năm 1651
Trong thời kỳ Pháp thuộc, chữ Quốc ngữ chịu ảnh hưởng từ một
số thuật ngữ mới, từ ngữ mới của phương Tây, mà chủ yếu là tiếng Pháp như
phanh, lốp, găng,…. Và tiếng Hàn như chính đảng, kinh tế, giai cấp, bán kính,… Năm
1865, tờ báo Gia Định là tờ báo đầu tiên tại Việt Nam phát hành chữ quốc ngữ.
Những nhà yêu nước như cụ Lương Văn Can, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh là những
người đi tiên phong trong việc thúc đẩy toàn dân học chữ quốc ngữ và điều này
đã góp phần cho sự phát triển và phổ biến trong ngày nay. Do đó, văn học chữ Quốc
ngữ thời kỳ này phát triển một cách nhanh chóng và mạnh mẽ, được gọi là nền văn
học trước Cách mạng Tháng Tám, tiêu biểu đó chính là Tản Đà, Vũ Trọng Phụng,
Hàn Mặc Tử,… Và bắt đầu từ năm 1945, chữ Quốc ngữ là ngôn ngữ chính thức được
sử dụng rộng rãi trong các ngành và lĩnh vực trên toàn quốc.
Đặc điểm

- Ngữ âm: tiếng Việt có một đơn vị đặc biệt được gọi là
“tiếng”. Về mặt ngữ âm, mỗi tiếng là một âm tiết. Hệ thống âm vị tiếng Việt
phong phú và có tính cân đối, tạo ra tiềm nằng của ngữ âm tiếng Việt trong việc
thể hiện các đơn vị có nghĩa. Nhiều từ tượng hình, tượng thanh có giá trị gợi
tả đặc sắc. Khi tạo câu, tạo lời thì người Việt rất chú ý đến sự hài hòa về ngữ
âm, nhạc điệu của câu văn.
- Từ vựng: mỗi một tiếng là một yếu tố có nghĩa. Tiếng là đơn
vị cơ sở của hệ thống các đơn vị có nghĩa của tiếng Việt, người ta tạo ra các
đơn vị từ vựng khác để phân biệt định danh, hiện tượng,… chủ yếu là nhờ vào
phương thức ghép và phương thức láy.
- Ngữ pháp: từ của
tiếng Việt không biến đổi hình thái. Đặc điểm này sẽ chi phối trực tiếp đến các
đặc điểm ngữ pháp. Khi kết hợp từ thành các kết cấu như ngữ, câu, tiếng Việt
rất coi trọng phương thức trật tự từ và hư từ.
Tiếng Việt ngày nay đã trở nên phổ biến, đa dạng hơn bởi với
xu hướng hội nhập quốc tế. Sự kết hợp một cách hợp lý giữa các từ ngữ Anh –
Việt đã tạo nên tính hiện đại cho tiếng Việt. Bên cạnh đó, nhu cầu sử dụng dịch
vụ dịch thuật đang tăng cao do có sự hợp tác giữa các quốc gia ngày càng nhiều.
Thông qua dịch thuật, chúng ta có thể hiểu sâu hơn về nét đẹp của tiếng Việt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét